Quy trình xử lý chất thải rắn công nghiệp
Thực tế đã chứng minh, công nghiệp hóa tăng trưởng thì lượng chất thải rắn công nghiệp (CTRCN) ngày càng gia tăng. Loại chất thải này tập trung nhiều tại các vùng cung cấp công nghiệp trọng điểm ở phía Bắc và phía Nam. => Công ty xử lý chất thải công nghiệp => bảng giá xử lý chất thải nguy hại
Theo ThS. Dương Xuân Điệp, Trưởng phòng kỹ thuật Môi trường, Viện kỹ thuật Quản lý Môi trường, thì thành phần CTRCN thường bao gồm: rác thải hữu cơ (30-40%), tro xỉ (10-15%), kim loại (5-10%), bao bì (2-4%) và các thành phần vô cơ khác như: thủy tinh, cao su, giẻ lau (20-30%). Trong khi, thành phần chất thải gian nguy như: dầu thải, sơn keo, dung môi… cũng thường chiếm không quá 20%, tùy thuộc loại hình sản xuất công nghiệp. Đáng lưu ý là lượng chất thải này hiện không được thu gom, xử lý triệt để mà bị chất đống hoặc thải vào các kênh rạch, sông, hồ, gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, đất và không khí làm ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe loài người, đặc thù là so với người công trạng làm việc tại các khu phân phối công nghiệp cũng như xí nghiệp vùng lân cận.
Tổng khối lượng CTRCN phát sinh ngày càng nhiều, Dường như lực lượng làm công tác thu gom, xử lý lại khá “mỏng”. bây giờ, ở đa số các địa phương, Cty Môi trường thành phố là DN Nhà nước, chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý, thu gom, vận chuyển và xử lý CTR đô thị và CTRCN. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh…, còn lại phần lớn các địa phương đều gặp cạnh tranh trong công tác này do thiếu nhân lực và trang thiết bị.
https://4.bp.blogspot.com/-7Nosv6U6e...y-te-la-gi.jpg
=> https://www.blogmamnon.top/2017/11/n...-giao-duc.html
=> https://www.blogmamnon.top/2017/05/x...sach-ep-o.html
Bên cạnh đó đó, tác dụng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường (BVMT) nói chung và CTR nói riêng còn chồng chéo, mỗi địa phương một khác. Theo Luật BVMT ban hành năm 2005 thì công tác BVMT có sự tham gia quản lý của nhiều bộ, ngành, trực tiếp là Bộ khoáng sản và Môi trường, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng. Điều này dẫn tới phân tán, chồng chéo, làm giảm tốt nhất quản lý. đặc trưng, ở cấp địa phương, theo Nghị định 81/2007/NĐ-CP ban hành ngày 23/5/2007, tính năng quản lý nhà nước về BVMT nói chung (có quản lý chất thải) được giao cho Sở khoáng sản và Môi trường, song theo Nghị định số 13/2008/NĐ-CP, ban hành ngày 4/2/2008 thì chức năng quản lý nhà nước về CTR lại được chuyển sang Sở thành lập. do vậy, ở mỗi địa phương, công dụng quản lý CTR được giao cho những đơn vị không giống nhau.
Nguồn vốn đầu tư cho hoạt động BVMT khá nhiều (được trích từ nguồn ngân sách nhà nước hàng tháng, nguồn thu từ phí BVMT và phí vệ sinh môi trường), song mức chi cho hành động này lại thấp.
Mặc dù hàng tháng, các cơ quản quản lý về BVMT từ cấp Trung ương đến địa phương đều tập đoàn thanh, kiểm tra tình hình tuân hành luật pháp luật pháp BVMT nói chung và công tác quản lý CTR nói riêng, nhưng không nhiều vi phạm lớn liên quan đến tác động này bị phát hiện.
Để tăng lên các biện pháp quản lý giám sát chặt chẽ CTR, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật BVMT 2005 theo hướng quy định cụ thể công dụng, nhiệm vụ của các công ty tham gia công tác quản lý CTR từ cấp Trung ương đến địa phương. Đồng thời sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 về quản lý CTR hoặc ban hành một nghị định mới về quản lý chất thải ngay sau khi Luật BVMT sửa đổi được thông qua, nâng cao vai trò của các cửa hàng nhập cuộc quản lý CTR.
lưu ý đầu tư về nguồn lực tài chính, trang đồ vật và nhân lực cho các DN đảm nghĩa vụ vụ thu gom và xử lý CTR. Việc quy hoạch và lựa chọn các kỹ thuật xử lý CTR phải thích hợp với điều kiện địa phương. Theo đó, cần tiến tới quy hoạch khu quản lý và xử lý CTR trên phạm vi cả nước, đồng thời áp dụng các khoa học xử lý hiện đại, bình yên, ưa thích.
Ngoài việc tăng cao ý thức trong việc vâng lệnh các lao lý về BVMT, các DN phân phối công nghiệp cần đầu tư thay đổi khoa học; hạn chế tiêu dùng các hóa chất độc hại trong từng giai đoạn cung cấp.
Thêm vào đó, các DN cũng cần tăng cường tránh, tái tiêu dùng, tái chế chất thải bằng cách giảm thiểu tối đa nguyên liệu đầu vào; tăng lên ứng dụng cung ứng sạch hơn; tăng cao quản lý nội vi, kiểm soát công đoạn, cải tiến trang trang bị để tránh thất thoát nguyên vật liệu.=> xử lý chất thải công nghiệp