xử lý chất thải công nghiệp Ngành Chăn nuôi tại Việt Nam hiện tại có xu thế chuyển dịch từ quy mô nông hộ sang chăn nuôi tập trung và thâm canh với quy mô lớn. so với xu hướng đó, ô nhiễm môi trường (ÔNMT) chăn nuôi tại các vùng nông thôn ngày càng vươn lên nghiêm trọng. Theo những chuyên gia nông nghiệp cho rằng, nguyên nhân chính gây ô nhiễm là do chăn nuôi nhỏ lẻ, không kiểm soát được xả thải ra môi trường. Tuy nhiên, qua thực tế khảo sát ở Việt Nam, chăn nuôi quy mô trang trại và thâm canh, dù rằng có áp dụng biện pháp xử lý môi trường, nhưng vẫn gây ÔNMT nghiêm trọng do các nguyên nhân về công tác quản lý môi trường và dùng khoa học chưa ưng ý.



Thực trạng và nguyên nhân ô nhiễm môi trường chăn nuôi tại Việt Nam

Theo thống kê của Bộ NN&PTNT về chăn nuôi, cả nước hiện có khoảng 12 triệu hộ gia đình có động tác chăn nuôi và 23.500 trang trại chăn nuôi tập trung. Trong đó, nhiều ở nước ta là chăn nuôi lợn (khoảng 4 triệu hộ) và gia cầm (gần 8 triệu hộ), với tổng đàn khoảng 362 triệu con gia cầm, 29 triệu con lợn và 8 triệu con gia súc, mỗi năm khối lượng nguồn thải ra từ chăn nuôi ra môi trường là một con số kếch xù - khoảng 84,5 triệu tấn/năm, trong đó, chỉ khoảng 20% được sử dụng hiệu quả nhất (làm khí sinh học, ủ phân, nuôi trùn, cho cá ăn,…), còn lại 80% lượng chất thải chăn nuôi đã bị tiêu hao và đông đảo thải ra môi trường gây ô nhiễm.=> Công ty xử lý chất thải công nghiệp tai tp hcm - giá xử lý rác thải công nghiệp


Nguyên nhân chính được xác định gây ÔNMT trong ngành chăn nuôi là do các trang trại tiêu dùng nhiều nước. Kết quả khảo sát cho thấy, các trang trại chăn nuôi sử dụng ít nước đều có thể thuận lợi thu gom chất thải rắn để bán làm phân bón hữu cơ. Chất thải rắn từ các trang trại nuôi gà hầu như được tiêu thụ hết cho mục đích trồng rau, hoa, cây cảnh; hiện tại hiện ra tự phát một hệ thống thu gom phân trâu bò khô từ đồng bằng sông Cửu Long đến vùng Nam Trung bộ để bán cho các cơ sở chế biến phân bón hữu cơ tại Tây Nguyên phục vụ trồng cây công nghiệp như cà phê, tiêu, cao su…; chất thải rắn thu gom từ chăn nuôi lợn nái (do nuôi lợn nái không được sử dụng nhiều nước) luôn được tiêu thụ tốt. do đó, có thể nói trong chăn nuôi sử dụng ít nước, chất thải rắn từ chăn nuôi luôn có thể thu gom để bán nên không còn nhiều để thải ra môi trường. Chỉ có chăn nuôi lợn thịt hoặc chăn nuôi bò sữa quy mô công nghiệp tiêu dùng nhiều nước (theo các quy trình chăn nuôi thâm canh quy mô lớn) mới là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường do chất thải lỏng từ các trang trại này không thể thu gom nên chỉ còn cách xả trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua các hầm khí sinh học (KSH)) xuống nguồn nước.

Mặt khác, công tác quản lý môi trường chưa phục vụ được với nhu cầu của thực tế chế tạo. Các quy chuẩn khoa học quốc gia về nước thải chăn nuôi theo QCVN 40:2011/BTNMT trước kia và QCVN 62-MT:2016/BTNMT bây giờ đều quá cao so với khả năng thực tế ứng dụng kỹ thuật xử lý môi trường bây giờ, dẫn đến tất cả các trang trại đều không thể đáp ứng yêu cầu đặt ra do chưa có kỹ thuật xử lý môi trường chăn nuôi hiệu quả để theo kịp các pháp luật về xả thải môi trường. Do khó có thể đáp ứng điều khoản xả thải nên ở nhiều nơi, việc dùng biện pháp xử lý môi trường của các trang trại chỉ mang tính đối phó. Vẫn còn tâm lý ưu tiên tăng trưởng kinh tế, giảm nhẹ yếu tố môi trường ở nhiều cấp chính quyền địa phương nên việc quản lý và xử lý môi trường chăn nuôi còn mang nặng tính chế độ.

Những năm vừa qua, biện pháp KSH được mọi người và các cấp chính quyền ưu tiên sử dụng, tuy nhiên vẫn còn có nhiều khó khăn, bất cập. Đối với các công trình KSH quy mô nhỏ, hiện tượng quá tải ngựa xử lý (quy mô chăn nuôi đổi mới chuyên Ngoài ra khoảng trống của hầm KSH là cố định) và khí ga thừa không tiêu dùng hết, xả trực tiếp ra môi trường là nguyên nhân nhiều gây ô nhiễm môi trường. so sánh với chăn nuôi quy mô trang trại, khoa học KSH chưa thực sự đem lại tiện dụng về kinh tế (làm hầm KSH tốn thể tích đất, tốn mức giá đầu tư lớn nhưng không mang đến nguồn thu bổ sung cho chủ trang trại), có hoạt động tiêu cực về môi trường (khí ga xuất hiện hầu như không sử dụng, xả trực tiếp ra môi trường, hầm KSH không được quan tâm vận hành, hỏng không được sửa chữa do chủ trang trại không có động lực để bỏ giá thành ra duy trì vận hành hệ thống nhằm đảm bảo tốt nhất xử lý môi trường) và hậu quả xấu về xã hội (việc áp dụng biện pháp xử lý môi trường chỉ mang tính cơ chế, đối phó lẫn nhau giữa các chủ trang trại và các cấp quản lý).

Qua khảo sát của Dự án Hỗ trợ làm béc phun các bon thấp (LCASP) do Bộ NN&PTNT thực hiện, tất cả các hộ dân lựa chọn xây lắp các công trình KSH quy mô nhỏ dưới 15 m3 vì lý do đây là thể tích yêu thích với nhu cầu tiêu dùng khí ga đun nấu của hộ gia đình, bởi vậy, đem lại tốt nhất đầu tư cao nhất. phần lớn khí ga hình thành từ các nhà cửa KSH quy mô lớn hơn 50 m3 đã và đang không được dùng hết và xả bỏ ra ngoài môi trường. Nguyên nhân chính của việc xả bỏ khí ga là do các kỹ thuật tiêu dùng khí ga để phát điện, thắp sáng, chạy máy... còn nhiều tránh như hay hỏng vặt, giá tiền cao, không thích hợp với điều kiện của Việt Nam,...dẫn đến không mang lại tốt nhất kinh tế thực sự cho người sử dụng.



Có thể nói, hiện trạng quản lý môi trường chăn nuôi ngày nay đang còn nhiều bất cập về quản lý, thất vọng về khoa học xử lý chất thải chăn nuôi quy mô trang trại, thiếu sự lưu tâm thỏa đáng của các cấp chính quyền về quản lý và sự đầu tư nghiên cứu tìm kiếm các giải pháp công nghệ yêu thích, bền vững, giúp vừa xử lý môi trường chăn nuôi lại vừa đem lại thu nhập bổ sung, tạo động lực cho người dân dùng các biện pháp BVMT.

Đề xuất một số giải pháp để tránh ô nhiễm môi trường chăn nuôi

Xuất phát từ những phân tích ở trên, một vài giải pháp để giải quyết về chuyện ô nhiễm môi trường của ngành chăn nuôi được đề xuất như:

Nghiên cứu xây dựng các quy trình chăn nuôi tiết kiệm nước nhằm tăng khả năng thu gom chất thải rắn của các trang trại chăn nuôi để chuyên dụng cho cung cấp phân bón hữu cơ.

Đồng thời, nghiên cứu khoa học xử lý chất thải cho các quy mô chăn nuôi khác nhau theo hướng: khoa học KSH cải tiến cho chăn nuôi quy mô nhỏ và những kỹ thuật bổ trợ khác nhằm khắc phục các hạn chế về quá tải hầm KSH; Các đồ vật giúp sử dụng hết khí ga hiện ra từ các hầm KSH; khoa học tách chất thải rắn từ phân lỏng do chăn nuôi quy mô công nghiệp dùng nhiều nước tạo ra nhằm xử lý hiệu quả nhất hơn nước thải từ các trang trại chăn nuôi.

Có chế độ khuyến khích nghiên cứu, chế tạo và tiêu thụ phân bón hữu cơ sinh học có nguồn gốc từ chất thải chăn nuôi nhằm thay thế phân hóa học nhập khẩu. bây giờ, mỗi năm Việt Nam tiêu thụ khoảng 11 triệu tấn phân bón, trong đó hơn 90% là phân bón hóa học (số liệu thống kê năm 2016 cho thấy, Việt Nam nhập khẩu khoảng 4,2 triệu tấn phân bón hóa học với trị giá 1,25 tỷ USD), phân bón hữu cơ chỉ chiếm xấp xỉ 1 triệu tấn.Tính bình quân mỗi ha canh tác ở Việt Nam nhận hơn 1 tấn phân bón hóa học mỗi năm, đây là mức cao cùng với các nước trong khu vực. Khi dùng phân bón hóa học, khoảng từ 30-50% lượng phân bón được cây xanh dùng để tạo sinh khối, phần còn lại sẽ bị bốc hơi và rửa trôi xuống nguồn nước gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra đó, với khoảng 84,5 triệu tấn chất thải rắn do ngành chăn nuôi thải ra hàng năm, nếu các trang trại chăn nuôi được chuyển giao khoa học hiện đại để sản xuất phân bón hữu cơ từ chất thải chăn nuôi, nhằm giảm ô nhiễm môi trường chăn nuôi một cách bền vững.

Kiến nghị nghiên cứu điều chỉnh pháp luật về xả thải chăn nuôi ưa thích hơn với điều kiện thực tế của các trang trại chăn nuôi tại Việt Nam.

yêu cầu bổ sung công nghệ sử dụng chất thải chăn nuôi làm phân bón hữu cơ nguyên liệu thành một trong những công nghệ xử lý môi trường chăn nuôi chủ lực cho các trang trại không tính kỹ thuật KSH đang được ưu tiên sử dụng bây giờ.

=> https://www.xulychatthaicongnghiep.n...t-date-la.html